kiện đòi tài sản
Yêu cầu thanh toán vốn góp cổ đông hay kiện đòi tài sản? Cập nhật lúc 10:04, Thứ hai, 24/08/2020 (GMT+7) Chia sẻ. TAND tỉnh Lâm Đồng đang thụ lý vụ kiện "Yêu cầu thanh toán vốn góp cổ đông trong công ty" liên quan đến các cổ đông của Công ty Cổ phần rau Anh Đào. Trước
Án lệ số 50/2021/AL về quyền khởi kiện vụ án đòi lại tài sản của người được giao tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2021 và được công bố theo Quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chánh
Mẫu Đơn khiếu nại đủ điều kiện thụ lý gửi tòa án. thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp
Vay Tiền Online Tima. Kiện đòi tài sản theo Luật dân sự Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản Phương thức kiện này được gọi phổ biến là kiện vật quyền kiện đòi lại tài sản. Loại việc này diễn ra khá phổ biến tại các Toà án trong những năm vừa qua, đặc biệt là kiện đòi nhà, đất. Bộ luật dân sự đã quy định về nghĩa vụ hoàn trả tài sản do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Theo đó, người chiếm hữu, sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật, thì có nghĩa vụ hoàn trả cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó. 1. Điều kiện để thực hiện biện pháp kiện đòi tài sản Vật rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thông qua quan hệ hợp đồng. Người thực tế đang chiếm hữu, sử dụng tài sản là người chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải chứng minh được vật đang bị chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật là vật thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Trên thực tế, để chứng minh được thì tài sản thường phải là vật đặc định. Vật là đối tượng của việc kiện vẫn chưa bị xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. 2. Xác lập quyền tài sản theo thời hiệu Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó. 3. Đòi tài sản từ người thứ ba nhận tài sản ngay tình Là trường hợp người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật chuyển giao tài sản đó cho người thứ ba. Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu. Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa. 4. Phương thức hoàn trả tài sản Nếu là không ngay tình thì người chiếm hữu, người sử dụng, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; Nếu là ngay tình, thì chỉ phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Trong trường hợp người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình đã bỏ chi phí ra để làm tăng giá trị của tài sản, thì sẽ được thanh toán những chi phí đó khi họ phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu. Người thứ ba có quyền kiện người đã giao tài sản cho mình phải bồi thường thiệt hại. Thông tin liên hệ Văn phòng luật sư Quang Thái Địa chỉ 12 Mạc Đỉnh Chi, Phường Đa kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn xử lý nhanh chóng các vấn đề pháp lý của quý khách! Bài viết xem thêm NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 Tư Vấn Pháp Luật Hợp Đồng Quyền Sở Hữu Tài Sản Một số điểm mới về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOBỘ TƯ PHÁPTRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘIĐINH THỊ TÂMKIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀTHỰC TIỄNChuyên ngành Luật Dân sựMã số 60 38 30LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌCNgười hướng dẫn khoa học TS. Lê Đình NghịHÀ NỘI - 2012LỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan đây làcông trình nghiên cứu của riêngtôi. Những kết luận khoa học củaluận văn chưa từng được ai côngbố trong bất kỳ công trình nàokhác./.TÁC GIẢ LUẬN VĂNĐinh Thị TâmDANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮTĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂNBLDSBộ luật Dân sựBLDS 1995Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 1995BLDS 2005Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2005BLTTDSBộ luật tố tụng dân sựBLTTDS 2004Bộ luật Tố tụng Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2004CNXHChủ nghĩa xã hộiNxbNhà xuất bảnQSDĐQuyền sử dụng đấtTANDTòa án nhân dânTANDTCTòa án nhân dân Tối caoUBNDỦy ban nhân dânVKSNDViện kiểm sát nhân dânVKSNDTCViện kiểm sát nhân dân Tối caoMỤC ĐẦUChương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỆNĐÒI LẠI TÀI SẢNKhái quát chung về kiện đòi lại tài sảnKhái lược các quy định về kiện đòi lại tài sản theo phápluật Việt NamChương 2 KIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN THEO QUYĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAMHIỆN HÀNHChủ thể tham gia quan hệ kiện đòi lại tài sảnĐối tượng của kiện đòi lại tài sảnCác trường hợp kiện đòi lại tài trường hợp không được kiện đòi lại tài sảnThời hiệu kiện đòi lại tài sảnChương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNGHƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỆNĐÒI LẠI TÀI SẢNThực tiễn áp dụng pháp luật và những vướng mắc trongquá trình giải quyết các tranh chấp về kiện đòi lại tàisảnNguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trong thựctiễn áp dụng pháp luật về kiện đòi lại tài sảnPhương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luậtvề kiện đòi lại tài sảnKẾT LUẬNDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢOTrang155132323293341505454646572731MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tàiQuyền sở hữu là một trong các quyền dân sự cơ bản của công dân và đượcpháp luật bảo hộ. Bằng các phương thức khác nhau pháp luật cho phép các chủ thểtự bảo vệ quyền sở hữu của mình hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyềnbảo vệ quyền sở hữu của mình khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu. Xuất phát từvai trò quan trọng của vấn đề sở hữu trong đời sống kinh tế xã hội cũng như tínhchất đa dạng, phức tạp của các quan hệ về sở hữu mà các tranh chấp liên quan đếnvấn đề sở hữu luôn là vấn đề phức tạp trong đời sống xã hội cũng như trong côngtác xét xử của Toà án. Hàng năm, Toà án các cấp đã phải giải quyết hàng ngàn vụviệc liên quan đến các tranh chấp về sở hữu mà trong đó phải kể đến số lượngkhông nhỏ các vụ kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sảnkhông có căn cứ pháp 1995 ghi nhận các quy định về kiện đòi lại tài sản với những quy địnhcụ thể và đây được coi là căn cứ pháp lý quan trọng để các cấp Toà án áp dụng giảiquyết các tranh chấp về quyền sở hữu nói chung, kiện đòi lại tài sản nói riêng. Quaquá trình áp dụng vào thực tiễn, BLDS 1995 đã bộc lộ một số khiếm khuyết cần sửađổi, bổ sung và đây là lý do để BLDS 2005 ra đời. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cựcthì quy định của BLDS 2005 về kiện đòi lại tài sản vẫn còn những khiếm khuyết,bất cập dẫn tới nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, gây ra khiếu kiện kéo dài,đặc biệt là đối với các vụ kiện liên quan đến quyền sử dụng góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiện đòi lại tài sản,nâng cao hiệu quả trong thực tiễn áp dụng thì việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luậtliên quan đến vấn đề kiện đòi lại tài sản là rất cần Tình hình nghiên cứu đề tàiPháp luật về sở hữu nói chung và bảo vệ quyền sở hữu nói riêng đã được sựquan tâm của nhiều nhà nghiên cứu dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn. Các côngtrình nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố tương đối phong phú và đa thể kể đến một số công trình nghiên cứu cụ thể nhưBài viết “Bàn về quyền sở hữu trong luật dân sự” của Tiến sỹ Trần Đình2Hảo đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 1995; Luận án PTS Khoahọc Luật học của tác giả Hà Thị Mai Hiên với đề tài “Quyền sở hữu của công dânở Việt Nam”, đã bảo vệ thành công năm 1996; Luận án Thạc sỹ luật học của tác giảNguyễn Văn Cường với đề tài “Một số vấn đề về quyền sở hữu trong Bộ Luật dânsự Việt Nam”, đã bảo vệ thành công năm 2000; Luận án Tiến sỹ Luật học của tácgiả Hoàng Ngọc Thỉnh với đề tài “Quyền sở hữu của cá nhân và phương thức bảovệ”, đã bảo vệ thành công năm 2001; Bài viết của Tiến sỹ Bùi Đăng Hiếu về “Quátrình phát triển của khái niệm quyền sở hữu”, đăng trên Tạp chí Luật học, số 5 năm2003; Sách tham khảo của Nguyễn Văn Thạo và TS. Nguyễn Hữu Đạt“Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay” Nxb Chính trị Quốc gia, năm2004…Sau khi BLDS 2005 ra đời, cũng đã có không ít các công trình nghiên cứu vềchế định sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu, góp phần làm phong phú, sáng tỏ hơn cảvề mặt về lý luận và thực tiễn về vấn đề này. Đáng chú ý là các công trình nghiêncứu như Bài viết của tác giả Nguyễn Ngọc Điện “Cần xây dựng lại khái niệm“quyền tài sản” trong Luật dân sự Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lậppháp số 3 năm 2005; Bài viết của Tiến sỹ Trần Văn Trung “ Một số quy định mớivề tài sản và quyền sở hữu trong BLDS 2005”, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 2 năm2006; Bài viết của Tiến sỹ Nguyễn Hữu Huyên “Bảo vệ quyền sở hữu dưới góc độluật so sánh”; Bài viết của tác giả Tưởng Duy Lượng “Bảo vệ quyền sở hữu trongBộ luật Dân sự năm 2005”, đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, số 6 năm 2007; Bàiviết của tác giả Đỗ Văn Đại “Về thời hiệu kiện đòi lại tài sản trong pháp luật dânsự Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 13 năm 2011…Ngoài ra phải kể đến các hội thảo khoa học về quyền sở hữu đã được tổ chứcthu hút sự quan tâm, tham gia của nhiều nhà khoa học. Tại Trường Đại học Luật HàNội, năm 2007 đã tổ chức thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về vấn đề“Tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” vàhội thảo khoa học cấp trường với đề tài “Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trongpháp luật dân sự Việt Nam”, trong cuộc hội thảo này một số nhà nghiên cứu đã trìnhbày các tham luận về các phương thức bảo vệ quyền sở hữu, theo đó có đề cập đến3kiện đòi lại tài thể thấy rằng, vấn đề sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu đã được nhiều nhànghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có bất cứ công trình nào viếtdưới góc độ nghiên cứu chuyên sâu về phương thức kiện đòi lại tài sản dưới một đềtài cụ thể. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Kiện đòi lại tài sản - Một số vấn đề lýluận và thực tiễn” với mong muốn có được cái nhìn tương đối toàn diện, hệ thốngvề phương thức kiện đòi lại tài Phạm vi nghiên cứu đề tàiTrong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, tác giả chủ yếu tập trung vào nghiêncứu một số vấn đề mang tính lý luận chung về kiện đòi lại tài sản, từ đó đi sâu vàophân tích các quy định của pháp luật về kiện đòi lại tài sản và việc áp dụng phápluật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giải quyết các tranh chấp vềkiện đòi lại tài sản. Qua đó, chỉ ra những khuyếm khuyết, chưa đồng bộ của các quyđịnh pháp luật và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luậtvề kiện đòi lại tài Phương pháp nghiên cứu đề tàiCơ sở phương pháp luận mà đề tài sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tàilà phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Ngoài ra, đề tài cònđược sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phươngpháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp suy diễn logic…5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tàiMục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích, đánh giá những vấn đề cònbất cập trong quy định của BLDS 2005 về kiện đòi lại tài sản. Thông qua đó, cónhững đánh giá, kết luận, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hơn nữa các quy địnhpháp luật hiện hành về kiện đòi lại tài đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra như sau- Phân tích khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định về kiện đòilại tài sản;- Phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về kiện đòi lại tài sản qua cácthời kỳ, từ đó làm nổi bật tính kế thừa truyền thống và những bước phát triển củacác quy định về kiện đòi lại tài sản;4- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết các tranhchấp về kiện đòi lại tài sản của Toà án;- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp Những nghiên cứu mới của luận quá trình tìm hiểu các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luậtvề kiện đòi lại tài sản, luận văn có được một số điểm mới sau- Luận văn trình bày một cách khoa học và có hệ thống những vấn đề cơ bảnvề kiện đòi lại tài sản với tư cách là một phương thức kiện dân sự nhằm bảo vệquyền sở Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về kiện đòilại tài sản hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật này trong việc giảiquyết các tranh Luận văn đề xuất một số phương hướng hoàn thiện hơn nữa các quy địnhpháp luật về kiện đòi lại tài sản nhằm góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi chính đángcủa các chủ thể và ổn định giao lưu dân Cơ cấu của luận vănNgoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đượckết cấu bởi các nội dung sauChương 1. Một số vấn đề lý luận về kiện đòi lại tài 2. Kiện đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật dân sự Việt Namhiện 3. Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về kiệnđòi lại tài 1MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỆN ĐÒI LẠI TÀI quát chung về kiện đòi lại tài Khái niệm kiện đòi lại tài sảnBảo vệ quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sốngkinh tế xã hội. Có thể nói, nhu cầu bảo vệ quyền sở hữu là nhu cầu rất tự nhiên củaxã hội loài người trong quá trình hình thành và phát triển. Ngay từ thời kỳ sơ khaicủa xã hội loài người thì người nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ các sản vật tự nhiênđể đáp ứng các nhu cầu của mình. Cùng với sự phát triển của xã hội, con ngườikhông chỉ chiếm giữ các sản vật tự nhiên mà còn biết tạo ra nhiều loại của cải vậtchất khác nhau để đáp ứng các nhu cầu của cuộc sống ngày một phong phú độ tư hữu, mà đặc biệt là tư hữu về các tư liệu sản xuất chính trong xã hội càngphát triển thì con người cũng ngày càng có ý thức hơn trong việc chiếm giữ, sửdụng và bảo vệ các tài sản của thời kỳ sơ khai, con người thường phải dùng sức mạnh vũ lực để xác địnhvà bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu đối với tài sản và các tư liệu sản xuất nóichung của mình, điều này thường tạo nên sự bất ổn trong xã hội. Trong xã hội cóNhà nước và pháp luật thì pháp luật đã trở thành công cụ quan trọng và hữu hiệutrong việc bảo vệ quyền sở hữu, giúp cho chủ sở hữu thực hiện được các quyềnnăng sở hữu của mình một cách tốt nhất, cũng như góp phần ổn định trật tự xã Từ điển tiếng Việt “Bảo vệ là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ choluôn được nguyên vẹn” [36, Tr37]. Bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là sự tác động củapháp luật đến hành vi xử sự của con người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hànhvi xâm hại đến quyền sở hữu, giữ cho quyền sở hữu được nguyên vẹn. Nhà nước bảovệ quyền việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm của mình thì chủ sở hữu, người chiếmhữu hợp pháp có quyền “yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khácbuộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tàisản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyềnchiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại” [7, Điều 255]. Các hành vi xâm phạm7quyền sở hữu, quyền chiếm hữu trên thực tế khá đa dạng và phức tạp. Tuỳ thuộcvào tính chất, mức độ của các hành vi vi phạm trong từng trường hợp cụ thể mà ápdụng các phương thức kiện dân sự khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu cho phù Từ điển tiếng Việt “Kiện” được hiểu là “yêu cầu xét xử việc ngườikhác đã làm thiệt hại đến mình” [36, Tr 506] còn “đòi” là “nói cho người khác biếtphải trả hoặc trả lại cái thuộc quyền của mình” [36, tr 319]. Như vậy, có thể hiểukiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Toà ánxét xử buộc người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đối với tài sản củamình phải trả lại tài sản đó cho đòi lại tài sản còn được gọi là kiện vật quyền là một phương thức bảovệ quyền sở hữu tồn tại từ rất lâu đời, được áp dụng trong bối cảnh chủ sở hữu,người chiếm hữu hợp pháp bị mất quyền chiếm hữu tài sản của mình. Kiện đòi lạitài sản là cách thức giúp chủ sở hữu đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình mà đangkhông được chiếm hữu tài sản đòi lại tài sản là một phương thức bảo vệ quyền sở hữu, thể hiện ởquyền khởi kiện dân sự. Theo quy định của pháp luật thì phương thức này được ápdụng cho cả chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp khi họ bị mất quyền chiếmhữu đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của hữu là việc “chiếm giữ, quản lý tài sản hoặc chi phối tài sản theo ýchí của người có quyền đối với tài sản đó” [51, Tr40]. “Quyền chiếm hữu là quyềnnắm giữ, quản lý tài sản” [7, Điều 182]. Mất quyền chiếm hữu có thể hiểu là việcchủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đang không được chiếm giữ và chi phối tàisản thuộc quyền của mình. Để giành lại quyền chiếm hữu đối với tài sản của mìnhhọ phải “nhờ” đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, mà cụ thể là Toà án can này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải tham gia vào một quá trình tốtụng theo luật định. Để làm phát sinh quá trình tố tụng thì trước hết chủ sở hữu,người chiếm hữu hợp pháp phải có đơn khởi kiện, tức là phải nộp đơn yêu cầu Toàán có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình, hay nói một cách kháclà họ phải tiến hành kiện đòi lại tài những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm kiện đòi lại tài sản như sauKiện đòi lại tài sản là biện pháp kiện dân sự, theo đó chủ sở hữu, người8chiếm hữu hợp pháp yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người chiếmhữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luậtphải trả lại tài sản cho Đặc điểm của kiện đòi lại tài sảnKiện đòi lại tài sản là một phương thức kiện dân sự nhằm bảo vệ quyền sởhữu. Do vậy, nó cũng mang các đặc điểm chung của phương thức kiện dân sựThứ nhất, phương thức kiện đòi tài sản cũng mang tính thực tế và được ápdụng rộng rãi. Bởi lẽ, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu diễn ra khá phổ biến vàđa dạng, không phải hành vi nào cũng thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm để ápdụng các quy định trong Bộ luật Hình sự hay đủ điều kiện để áp dụng một chế tàicủa Luật Hành chính. Thêm vào đó, để khởi tố một vụ án hình sự hay ban hành ramột quyết định hành chính lại phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiệnvà phải thông qua các thủ tục phức tạp, mất thời gian mà nhiều khi lại không đạtđược hiệu quả như mong muốn của người bị thiệt hai, phương thức kiện đòi lại tài sản cũng như các phương thức kiện dânsự nói chung tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho chủ sở hữu, người chiếm hữuhợp pháp có thể chủ động thực hiện quyền khởi kiện của mình khi có hành vi xâmphạm theo thủ tục tương đối nhanh ba, phương thức kiện đòi lại tài sản là phương thức mang lại hiệu quảcao cho người bị thiệt hại, nó tạo điều kiện khắc phục những thiệt hại về vật chấtcho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, đây là vấn đề có ý nghĩa thực tế nhấtmà chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp quan những đặc điểm chung với tư cách là một phương thức kiện dân sự thìkiện đòi lại tài sản còn có những đặc điểm đặc thù sau đâyMột là, kiện đòi lại tài sản là biện pháp bảo vệ quyền chiếm hữu. Biện phápkiện đòi lại tài sản được áp dụng trong trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữuhợp pháp bị mất quyền chiếm hữu tài sản của mình. Nghĩa là, tài sản đang nằmtrong sự chiếm hữu của người khác, chủ sở hữu không còn khả năng kiểm soát đốivới tài sản của mình. Thực tế có một số cách hiểu khác nhau về chiếm hữu Có cáchhiểu cho rằng, chiếm hữu là một tình trạng chứ không phải một quyền năng, nó là9sự biểu hiện ra bên ngoài của quyền sở hữu. Cách hiểu khác, lại cho rằng chiếm hữulà một quyền. Cách hiểu thứ hai được xem là hợp lý hơn, bởi lẽ chiếm hữu là sựnắm giữ, chi phối vật nhưng trên thực tế có những vật là của mình nhưng chúng takhông thể nắm giữ chúng theo nghĩa cơ học được nên cần hiểu chiếm hữu là mộtquyền và khi quyền này bị xâm phạm thì nó phải được bảo đòi lại tài sản giúp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp lấy lại đượctài sản thuộc quyền của mình đang bị người khác chiếm hữu không có căn cứ phápluật, tức là có thể khôi phục lại trạng thái tài sản như ban đầu, đây chính là điều màchủ sở hữu mong muốn nhất. Để quyền chiếm hữu đối với tài sản được bảo vệ thìchủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải tiến hành khởi kiện một vụ án dân sựđể đòi lại tài sản. Trong trường hợp này, chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp phápcó nghĩa vụ chứng minh quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình đối vớitài sản đang tranh là, người bị kiện phải là người đang thực tế chiếm hữu không có căn cứpháp luật đối với tài sản đang tranh chấp. Điều này rất quan trọng vì có nhiềutrường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra người chiếm hữu tàisản của mình lúc trước nhưng lúc này người chiếm hữu tài sản đó đã trở thành chủsở hữu của tài sản do được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu hoặc xác lập quyềnsở hữu theo các quy định khác của pháp luật. Cũng có khi chủ sở hữu, người chiếmhữu hợp pháp do sự nhầm lẫn hay thiếu hiểu biết đã “kiện nhầm người” như trườnghợp kiện người trực tiếp xâm phạm tài sản của mình kiện người đã lấy cắp, lấytrộm tài sản… trong khi người này đã dịch chuyển tài sản đó sang chủ thể trường hợp như vậy không thể áp dụng kiện đòi lại tài sản hữu không có căn cứ pháp luật là sự chiếm hữu không dựa trên căn cứdo pháp luật quy định. Tuy nhiên, việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật có thểlà chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình hoặc chiếm hữu không cócăn cứ pháp luật không ngay chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là ngườichiếm hữu không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căncứ pháp luật [7, Điều 189].10Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình là người chiếmhữu không dựa trên căn cứ do pháp luật quy định, người chiếm hữu biết việc chiếmhữu là bất hợp pháp hoặc không biết việc chiếm hữu là không có căn cứ pháp luậtnhưng được xác định là có thể biết việc chiếm hữu là không có căn cứ pháp luậtpháp luật buộc phải biết [33, Tr 191].Khi bị kiện đòi lại tài sản, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật khôngngay tình phải trả lại tài sản cùng với hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản trong thờigian chiếm hữu cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Còn đối với ngườichiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì chỉ phải trả lại tài sảntrong những trường hợp nhất định và không phải hoàn trả hoa lợi, lơi tức thu đượctừ tài sản trong thời gian chiếm hữu ngay tình. Do vậy, cần lưu ý rằng không phảitrong mọi trường hợp xác định được người đang thực tế chiếm hữu không có căn cứđược người đã chuyển giao tài sản cho mình mà điều này lại khôna là, đối tượngBa là, đối tượng của kiện đòi lại tài sản phải là vật có thực, đang còn tồn tạitrên thực tế và là vật đặc định. Vật được hiểu là đối tượng của thế giới vật chất,nhưng không phải mọi vật đều là tài sản. Vật chỉ trở thành tài sản khi nó đáp ứngđược một nhu cầu vật chất nào đó của con người và nằm trong sự chiếm hữu củacon người, có đặc trưng giá trị và trở thành đối tượng của giao lưu dân sự. Vật đượcxác định là tài sản không chỉ là những vật đang tồn tại thực mà còn bao gồm cảnhững vật chắc chắn hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, vật trong kiện đòi lại tàisản chỉ bao gồm vật đang tồn tại thực mà thôi. Kiện đòi tài sản gắn với việc bảo vệquyền chiếm hữu cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nên không thể xảy raviệc kiện đòi lại tài sản mà tài sản đó lại chưa có thực, tức là chưa nằm trong sựchiếm hữu đòi lại tài sản cũng chỉ được áp dụng khi tài sản hiện còn tài sản hiệncòn được xác định là vẫn còn nguyên ở trạng thái ban đầu hoặc về cơ bản vẫn cònnhưng đã bị giảm sút giá trị hoặc đã được làm tăng giá trị, nếu tài sản không còntồn tại do đã bị mất mà không xác định được người đang thực tế chiếm hữu hoặc bịtiêu huỷ thì không thể áp dụng biện pháp kiện đòi lại tài sản được. Trong trườnghợp như vây, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp chỉ có thể áp dụng biện pháp11kiện đòi bồi thường thiệt là đối tượng của kiện đòi tài sản còn là vật đặc định. Vật đặc định lànhững vật có thể phân biệt với các vật khác bằng các dấu hiệu đặc trưng riêng biệtcủa vật đó về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Đây là điềukiện quan trọng đối với phương thức kiện đòi lại tài sản, vì chủ sở hữu người chiếmhữu hợp pháp khi khởi kiện phải căn cứ vào thực tế, tài sản của họ có tồn tại trongthực tế, chưa bị hủy hoại, có thể nhận dạng được để biết đó là tài sản của cơ sở vật có các đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặctính, tính năng tác dụng của nó nên chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp mới cóthể phát hiện ra nó khi nó đang bị người khác chiếm giữ trái pháp luật. Đây cũng làbằng chứng xác thực để chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp chứng minh quyềnsở hữu, quyền chiếm hữu của mình đối với tài sản, là căn cứ pháp lý quan trọng đểToà ra phán quyết bảo vệ quyền lợi cho là, giữa nguyên đơn và bị đơn trong quan hệ kiện đòi lại tài sản khôngcó quan hệ hợp đồng. Nghĩa là, tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợppháp ngoài ý chí của họ, hoặc theo ý chí nhưng người thứ ba nhận được tài sảnthông qua hợp đồng với người không có quyền định đoạt tài sản Ví dụ A bị mấtmột chiếc xe sau đó phát hiện thấy B đang đi chiếc xe đó; A có quyền đòi lại chiếcxe từ B, nếu B không chịu trả thì A có thể kiện B để đòi lại chiếc xe. Hoặc trườnghợp A cho B mượn một chiếc điện thoại di động để dùng, sau đó B không trả cho Amà lại tặng chiếc điện thoại này cho C. Khi A phát hiện ra C đang sử dụng thì A cóthể kiện C để đòi lại điện thoại của mình. Trong trường hợp các bên có quan hệhợp đồng mà phát sinh tranh chấp thì không áp dụng phương thức kiện đòi lại tàisản mà phải áp dụng các quy định về hợp đồng để giải vậy, về bản chất thì các đặc điểm riêng của kiện đòi lại tài sản cũngchính là các điều kiện để áp dụng phương thức kiện Vai trò của kiện đòi lại tài sảnCó thể nói rằng, trên thực tế biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếmhữu hợp pháp của mình là biện pháp diễn ra phổ biến nhất và cũng có hiệu quả nữa, người Việt Nam có truyền thống “duy tình”, “dĩ hoà vi quý”, luôn muốn12giữ gìn tình làng nghĩa xóm không muốn kiện tụng nhau ra Toà. Do vậy, việc kiệnnhau ra Toà cũng không phải là “thói quen” như là một nét văn hoá hết sức bình thườngở các nước Phương Tây. Khi có “xung đột” thì thông thường các bên tự dàn xếp vớinhau thông qua con đường hoà giải. Cách thức này đem lại hiệu quả rất tốt bởi mộtmặt nó giúp giữ được quan hệ tốt đẹp giữa các bên, mặt khác nó còn giúp cho việckhắc phục hậu quả được nhanh chóng và kịp thời do có sự tự nguyện của các nhiên, cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, kéo theo những tácđộng tiêu cực từ mặt trái của nó thì trong những năm gần đây, các hành vi xâmphạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp bắt đầu có xu hướng gia tăng, đặcbiệt là các hành vi lấn chiếm đất đai. Có nhiều vụ việc có nguồn gốc từ nhữngtranh chấp dân sự nhỏ nhặt nhưng các bên không thể tự hoà giải được với nhau màtrở thành những vụ án hình sự nghiêm trọng. Trong những trường hợp này, biệnpháp tự hoà giải xem ra không còn phát huy tác dụng, và chủ sở hữu, người chiếmhợp pháp buộc phải nhờ đến Toà án để có thể bảo vệ quyền lợi của mình. Vớinhững nét đặc thù riêng, kiện đòi lại tài sản là một phương thức kiện dân sự có vaitrò quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu, giữ vững trật tự an toàn xã hội. Cóthể nhận thấy vai trò của kiện đòi lại tài sản thể hiện ở những nội dung sauThứ nhất, việc luật hoá các quy định về sở hữu nói chung và quy định vềkiện đòi lại tài sản nói riêng thành một chế định tương đối đầy đủ và hoàn thiệnnhư hiện nay không chỉ thể hiện trình độ lập pháp ngày càng tiến bộ của Nhà nướcta mà nó còn là sự thể hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhànước ta trong việc bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể trong xã thức kiện đòi lại tài sản thể hiện thái độ tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối củaNhà nước đối với quyền sở hữu hợp pháp của người dân. Các quy định này là cơsở củng cố, tăng cường quyền lực Nhà nước trong hoạt động quản lý xã hội nóichung và quản lý các quan hệ về sở hữu nói riêng, góp phần giữ vững an ninhchính trị, trật tự an toàn xã hai, các quy định này là căn cứ pháp lý để Toà án áp dụng trong quá trìnhgiải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn, đảm bảo tính thống nhất, côngbằng và nghiêm minh của pháp luật. Trong thực tiễn thực thi pháp luật của các cơ13quan Nhà nước có nhiều trường hợp gặp phải khó khăn, vướng mắc mà nguyên nhânxuất phát từ sự thiếu các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề đó hoặc tuy có nhưnglại thiếu sự đồng bộ. Trong khi đó có thể nói rằng, các quy định hiện này về kiện đòilại tài sản là tương đối hoàn thiện và đồng bộ. Điều này đã tạo rất nhiều thuận lợi chocác cơ quan Nhà nước, đặc biệt là Toà án trong quá trình thực thi pháp ba, pháp luật nói chung là phương tiện quan trọng để giáo dục mọi thànhviên trong xã hội. Những quy phạm pháp luật được đặt ra luôn xác định rõ quyền vànghĩa vụ của các chủ thể, là khuôn mẫu cho hành vi xử sự của mỗi chủ thể khi ởtrong tình huống đã được dự kiến. Pháp luật tạo cho mỗi chủ thể khả năng sử dụngnhững quyền đã được quy định để phục vụ lợi ích của mình, nhưng đồng thời phảithực hiện những nghĩa vụ tương ứng để tôn trọng quyền và lợi ích của các chủ thểkhác, của tập thể và nhà nước. Các quy định về kiện đòi lại tài sản cũng không nằmngoài chức năng này của pháp luật. Quy định về kiện đòi lại tài sản đã góp phầnnâng cao hiểu biết của người dân trong việc bảo vệ quyền sở hữu của mình, tránhcác hành vi vi phạm, nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảo vệquyền sở hữu của mình và tôn trọng quyền sở hữu của các chủ thể tư, các quy định về kiện đòi lại tài sản thể hiện sự điều chỉnh kịp thời củapháp luật đối với những quan hệ pháp luật phát sinh trong đời sống xã hội, là căn cứđể chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Toà án xét xử khi có hành vi viphạm. Kiện đòi lại tài sản giúp cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp lấy lạiđược tài sản đang bị người khác chiếm hữu bất hợp pháp, khôi phục lại tình trạng tàisản như lúc ban đầu, tạo khả năng khắc phục kịp thời những thiệt hại vật chất cho chủsở hữu, người chiếm hữu hợp pháp như khi chưa bị xâm phạm. Kiện đòi lại tài sản làbiện pháp bảo hộ rất thiết thực bởi nó giúp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp phápđòi lại được tài sản mà không cần quan tâm đến khả năng tài chính của người phảithực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản khi thoả mãn các điều kiện để kiện đòi lại tài vậy, muốn thực hiện tốt sự quản lý của Nhà nước góp phần ổn định vàthúc đẩy sự phát triển của xã hội nói chung và các quan hệ về sở hữu nói riêng thìcần phải chú trọng, phát huy vai trò của pháp luật. Do vậy, cần phải xây dựng vàhoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu cho14phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới của đất Khái lược các quy định về kiện đòi lại tài sản theo pháp luật Việt NamPháp luật về bảo vệ quyền sở hữu nói chung và kiện đòi lại tài sản nói riêngở nước ta hình thành từ rất sớm. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, những quyđịnh này không những có sự kế thừa tinh hoa của thời kỳ trước mà còn khôngngừng được hoàn thiện để phù hợp hơn với các điều kiện lịch sử, xã hội Kiện đòi lại tài sản theo pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiếnThời kỳ phát triển rực rỡ nhất của chế độ phong kiến Việt Nam là giai đoạntừ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII. Các triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, đến triềuNguyễn đều đã để lại những di sản đồ sộ trong đó phải kể đến hệ thống pháp bộ luật được xem là tiêu biểu nhất trong thời kỳ phong kiến đó là Bộ Luật HồngĐức hay còn gọi là Quốc triều hình luật của nhà Lê và Bộ Hoàng Việt luật lệ haycòn gọi là Bộ luật Gia Long của nhà Nguyễn.* Thời kỳ nhà LêNăm 1428, sau cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, nhà Lê đượcthành lập. Thành công lớn nhất trong lĩnh vực lập pháp của nhà Lê là đã xây dựngvà ban hành Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật. Các vấn đề vềsở hữu và bảo vệ sở hữu đã được ghi nhận khá cụ thể trong bộ luật luật nhà Lê rất chú trọng đến quyền sở hữu và cách thức bảo vệ quyềnsở hữu, nhất là quyền sở hữu đối với ruộng đất. Để bảo vệ quyền tư hữu đất đaipháp luật quy định cụ thể các hành vi xâm chiếm hoặc bán trộm đất đai đều bị Nhànước trừng phạt và phải hoàn trả tài sản cho chủ sở 382 Chương điền sản trong Quốc triều Hình luật quy định “Bán trộmruộng đất của người khác thì xử tội biếm, bán từ 10 mẫu trở lên thì xử tội đồ, trảtiền cho người mua và phải trả thêm một lần tiền mua nữa để trả cho chủ có ruộngđất và người mua, mỗi người một nửa, ruộng đất phải trả cho chủ. Nếu người muabiết mà cứ mua thì xử 80 trượng và mất số tiền mua.”Điều 386 cũng quy định “Nô tỳ mà bán trộm ruộng đất của chủ thì xử phạt90 trượng và thích vào mặt 6 chữ, lưu đi châu gần, ruộng đất phải trả lại cho chủvà trả tiền cho người mua. Người mua biết mà cứ mua thì xử phạt 50 roi, biếm một15tư, tiền mua phải tịch thu sung công”.Có thể thấy rằng, các quy định này đã chỉ rõ chủ sở hữu được lấy lại tài sảnruộng đất đã bị người khác bán trộm hay nói cách khác là bị người khác định đoạtngoài ý chí của mình. Người bán trộm tài sản của người khác phải chịu hình phạt rấtnghiêm khắc cả về nhân thân và tài sản. Các quy định trên cũng xác định rõ quyềnvà nghĩa vụ của người mua ngay tình và người mua không ngay tình. Đối với ngườimua biết rõ người bán không phải chủ sở hữu đích thực hoặc không có quyền bánmà vẫn mua không ngay tình thì ngoài hình phạt về nhân thân còn phải trả lại tàisản cho chủ sở hữu, mất tiền mua. Nếu họ không biết người bán là người không cóquyền bán người mua ngay tình thì họ được lấy lại tiền đã mua từ người bán vàcòn được bồi thường thêm một khoản tiền từ người đã bán tài sản cho triều Hình luật cũng đã có quy định về thời hiệu đòi lại tài sản trongmột số trường hợp cụ thể như Quốc triều Hình luật quy định rằng, đối với nhữngruộng đất cầm mà chủ ruộng xin chuộc thì phải trong niên hạn niên hạn là 30 năm,“Nếu quá niên hạn mà xin chuộc thì không được. Trái lẽ mà cố cưỡng đi kêu, thìphải phạt 50 roi, biếm một tư” Điều 384. Ngoài ra, “Con trai từ 16 tuổi, con gái từ20 tuổi trở lên, mà ruộng đất của mình để người trưởng họ hay người ngoài cày hayở, đã quá niên hạn mới cố cưỡng đòi lại, thì phải phạt 80 trượng và mất ruộng đấtniên hạn người trưởng họ 30 năm, người ngoài 20 năm. Nếu vì binh hoả hay đisiêu bạt mới về, thì không theo luật này”. Như vậy, ruộng đất đã chiếm hữu lâu nămthông qua ở nhờ, mượn ruộng sẽ được xác lập quyền sở hữu cho người chiếm hữulâu năm đó, chủ sở hữu không còn quyền đòi lại nữa. Quy định này là hết sức cầnthiết và tiến bộ nhằm tránh tình trạng bỏ hoang ruộng đất cũng như ổn định các giaodịch dân sự, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ Quốc triều hình luật n Pháp đã ban hành và cho thi hành ở Việt Nam ba Bộ Dânluật tương ứng với ba xứ Bộ Dân luật Giản yếu Nam kỳ năm 1883 được áp dụng ởxứ Nam kỳ; Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931 áp dụng ở xứ Bắc kỳ và Bộ Hoàng ViệtTrung kỳ Hộ luật năm 1936 áp dụng ở Trung kỳ. Các vấn đề về bảo vệ quyền sởhữu nói chung và biện pháp kiện đòi lại tài sản nói riêng đã được quy định khá cụthể trong cả ba bộ luật 9 Bộ Dân luật Trung Kỳ quy định “Người và của tài sản đều không aiđược xâm phạm và do pháp luật bảo hộ. Tục bắt người làm nô lệ nhất thiết lànghiêm cấm”. Như vậy, pháp luật ghi nhận quyền sở hữu đối với tài sản được phápluật bảo hộ, nghiêm cấm mọi hành vi xâm quy định tại các Điều 426, 465, 466 của Bộ Dân luật Bắc kỳ và cácĐiều 467,479, 480 của Bộ Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật thì thấy rõ pháp luật thừanhận quyền sở hữu tư nhân là quyền tuyệt đối. Chủ sở hữu có toàn quyền chiếmhữu, hưởng dụng và định đoạt tài sản của mình, có quyền được hưởng các quyềnphái sinh khác từ tài sản sinh cơ sở bảo hộ quyền sở hữu của chủ sở hữu, Điều 554 Bộ Dân luật Bắckỳ quy định “Người đánh mất tài sản hoặc bị ăn trộm trong vòng một năm mà thấyvật ở tay người khác thì có quyền kiện đòi lại tài sản; người đang chiếm hữu vật bịtrộm cắp đó cũng có quyền kiện người đã trao vật ấy cho mình”. Điều luật này đãghi nhận quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu ngoài ýchí của họ, mà không có sự phân chia các trường hợp người đang chiễm hữu là ngaytình hay không ngay tình. Theo tinh thần của điều này có thể hiểu rằng, trong mọitrường hợp thì chủ sở hữu đều có quyền kiện đòi lại tài sản từ người đang chiếmhữu. Tuy nhiên, việc đòi lại phải được thực hiện trong một thời hạn nhất định. Theođó, thời hiệu để chủ sở hữu đòi lại tài sản từ người đang thực tế chiếm hữu vật làmột năm, thời hạn này là khá ngắn. Khi bị chủ sở hữu đòi lại tài sản thì người thứba đã nhận chuyển giao tài sản từ người không phải là chủ sở hữu có quyền kiệnngười đã trao vật cho mình để đòi bồi đề xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cũng được ghi nhận. Theo đó,người chiếm hữu bất động sản trong vòng 15 năm liên tục, ngay tình thì sẽ trở thành18chủ sở hữu của tài sản đó. Điều này đồng nghĩa với việc chủ sở hữu sẽ bị mất quyềnđòi lại tài sản trong trường hợp tài sản đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệucho người chiếm chịu ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự Napoleon 1804, nên có thể nói rằngmột số quy định trong cả ba bộ luật trên mang tính hiện đại và tiến bộ, trong đó baogồm cả các quy định về kiện đòi lại tài sản. Tuy nhiên, pháp luật về sở hữu trongthời kỳ này vẫn chủ yếu là nhằm bảo vệ cho chế độ chính quyền của thực dân Pháp,các quyền lợi của người dân chưa thực sự được bảo Kiện đòi lại tài sản theo pháp luật Việt Nam thời kỳ từ sau cáchmạng Tháng 8 năm 1945 đến BLDS 1995* Giai đoạn từ 1945 đến 1959Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta giành được chínhquyền từ tay đế quốc phong kiến. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà còn nontrẻ phải đối mặt với thù trong giặc ngoài nên chưa có điều kiện tập trung vào xâydựng hệ thống pháp luật mới. Mặc dù vậy, do nhận thức được vai trò quan trọng củapháp luật nói chung trong đời sống xã hội, đặc biệt là pháp luật dân sự nên chỉ hơnmột tháng sau ngày tuyên bố độc lập, ngày 10/10/1945 Hồ Chủ Tịch đã ký Sắc lệnh47/SL quy định về việc cho phép tạm thời sử dụng một số luật lệ cũ hiện hành ở bamiền Bắc, Trung, Nam trên nguyên tắc “những luật lệ ấy không trái với nguyên tắcđộc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”.Theo tinh thần sắc lệnh 47/SL, về lĩnh vực dân sự vẫn áp dụng các bộ luậtBộ Dân luật Giản yếu Nam kỳ năm 1883, Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931 và BộHoàng Việt Trung kỳ Hộ luật năm 1936 tương ứng với ba miền Bắc, Trung, Namtrong thời gian chờ ban hành các văn bản pháp luật mới thống nhất trong toàn 9/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộnghoà được thông qua. Theo đó, các quyền dân sự, đặc biệt là quyền sở hữu của ngườidân được tôn trọng và bảo vệ. Điều 12 Hiến pháp 1946 quy định “Quyền tư hữu tàisản của công dân Việt Nam được đảm bảo”.Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhiều sắc lệnh đã được ban hành gópphần điều chỉnh các quan hệ xã hội mới. Đối với lĩnh vực dân sự, Sắc lệnh 97/SL19ban hành ngày 22/5/1950 về “Sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật” có ýnghĩa vô cùng quan trọng. Sắc lệnh này vẫn tiếp tục cho thi hành những quy định củacác bộ dân luật cũ, đồng thời có bổ sung, thay đổi nhất định để phù hợp với thể chếchính trị mới, tạo nền móng cho các nguyên tắc cơ bản của Luật Dân sự sau này. Vềvấn đề sở hữu, Điều 12 Sắc lệnh 97/SL quy định “Người ta chỉ được hưởng dụng vàsử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không thiệt hạiđến quyền lợi của nhân dân”. Theo quy định này, chỉ có quyền sở hữu hợp pháp mớiđược pháp luật bảo vệ, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm, chiếm đoạt tài sản củangười áp dụng ba bộ dân luật được chấm dứt vào năm 1959 bằng Chỉ thị772/CT-TATC ngày 10/7/1959 về việc đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của phongkiến đế quốc. Như vậy, trong giai đoạn này chưa có các quy định mới về kiện đòilại tài sản.* Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980Với thắng lợi vang dội của chiến dịch Điện Biên Phủ, cách mạng Việt Nambước sang một thời kỳ mới. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng chủnghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân miền Nam, chế độ nguỵ quyền Sài Gòn vẫn cho áp dụng các quy định củaBộ Dân luật giản yếu Nam kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật. Năm 1972,chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Bộ Dân luật Sài Gòn. Các quy định vềkiện đòi lại tài sản được quy định khá đầy đủ và cụ thể trong bộ luật 722 Bộ Dân luật Sài Gòn quy định “Người thâu nhận một bất động sảnhay một động sản hữu hình, phải trả lại tài vật ấy nếu còn, hoặc giá trị của tài vậtấy nếu đã bị tiêu hủy hay hư hại vì lỗi của mình, ngay cả trong trường hợp ngẫunhiên, nếu người ấy gian tình”. Theo đó, chủ sở hữu được đòi lại tài sản là bất độngsản hay một động sản hữu hình từ người đang chiếm hữu không ngay tình. Tiếp đó,Điều 1489 quy định về trường hợp chủ sở hữu đòi lại tài sản từ người chiếm hữungay tình “Nếu người chấp hữu đã mua đồ vật ấy ở chợ, hay trong một cuộc phátmại công cộng, hay ở một tiệm có bán những đồ vật tương tự, người chủ, muốn lấylại đồ vật, phải hoàn lại giá mua cho người chấp hữu”. Như vậy, người chiếm hữu20ngay tình được pháp luật bảo vệ rất mạnh mẽ. Người chiếm hữu ngay tình đã muatài sản một cách công khai minh bạch nên chủ sở hữu muốn lấy lại tài sản của mìnhthì phải hoàn trả giá mua cho người chiếm hữu là hợp lý. Quy định này có thể nói làrất tiến bộ vì nó đã bảo vệ một cách hài hoà quyền lợi cho cả chủ sở hữu và ngườichiếm hữu ngay Dân luật Sài Gòn cũng quy định về thời hiệu kiện đòi lại tài sản là ba nămđối với động sản, Điều 1488 quy định “người nào để thất lạc hay bị mất trộm mộtđồ vật thực thể, hữu hình, có thể truy sách đồ vật ấy trong tay người chấp hữu,trong hạn ba năm kể từ ngày đồ vật bị thất lạc hay bị lấy trộm, trong trường hợpnày người chấp hữu có quyền khởi tố người đã di chuyển đồ vật cho mình”. Sau khimiền Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất đất nước, các bộ luật ở miền Namtrong đó có Bộ Dân luật Sài Gòn bị bãi bỏ, cả hai miền Nam Bắc được áp dụngthống nhất một hệ thống pháp miền Bắc Ngày 31/12/1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới trên cơ sởsửa đổi và phát triển Hiến pháp 1946. Trong giai đoạn này Nhà nước cũng ban hànhhàng loạt các văn bản pháp luật khác nhằm thể chế hoá Hiến Pháp, các quy định về sởhữu và bảo vệ quyền sở hữu cũng được lồng ghép trong đó. Ngày 21/10/1970 Pháplệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân được ban hành thể hiệnthái độ nghiêm khắc của Nhà nước ta đối với các hành vi xâm phạm quyền sở pháp từ bối cảnh lịch sử đặc thù, ở Miền Bắc thời kỳ này với chính sáchkinh tế bao cấp, các quan hệ dân sự chủ yếu mang tính hành chính mệnh lệnh chonên tranh chấp dân sự hầu như ít xảy ra và nếu có thì thường được giải quyết bằngcách thức hoà giải. Do vậy, các quy định về bảo vệ quyền sở hữu nói chung và cácquy định về kiện đòi tài sản nói riêng trong giai đoạn này nhìn chung là chưa đượcxây dựng thành một chế định pháp luật cụ thể trong hệ thống pháp luật dân sự. Việcgiải quyết các tranh chấp về tài sản được áp dụng theo các nguyên tắc chung củapháp luật dân sự đó là Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân.* Giai đoạn từ năm 1980 đến trước khi ban hành Hiến pháp 1992Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, để đáp ứng yêu cầu củathời kỳ lịch sử mới, ngày 18/12/1980 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới thay21thế cho Hiến Pháp 1959. Trong thời kỳ này Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều vănbản pháp luật về sở hữu, trong đó xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữutrong từng trường hợp cụ thể. Trong đó, phải kể đến một số văn bản pháp luật quantrọng như Luật Đất đai năm 1987; Pháp lệnh Thừa kế năm 1990; Pháp lệnh Nhà ởnăm 1991; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989. Nhìn chung,hiệu lực pháp lý của các văn bản pháp luật về sở hữu trong thời kỳ này có giá trịpháp lý cao hơn thời kỳ trước đó. Do vậy, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu cũng tốt nhiên, ở giai đoạn này vẫn chưa có các quy định mới cụ thể về kiện đòi lại tàisản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.* Giai đoạn từ 1992 đến khi ban hành BLSD 1995Công cuộc đổi mới toàn diện của nước ta bắt đầu từ sau Đại hội VI của Đảngđã đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng và đạt được những thành tựu bước đáp ứng nhu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, Quốc hội đã quyết định sửa đổiHiến pháp 1980. Ngày 15/4/1992 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp sửa đổi, Hiếnpháp 1992. Điều 58 Hiến pháp 1992 quy định “Công dân có quyền sở hữu về thunhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn vàtài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đấtđược Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.”Sau khi ban hành Hiến pháp 1992, ngày 28/10/1995, Quốc hội đã thông quaBLDS. Có thể nói, BLDS 1995 ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trongquá trình lập pháp của Nhà nước ta. Chế định sở hữu được quy định trong BLDS1995 tại phần thứ hai Tài sản và quyền sở hữu và chương VI quy định về bảo vệquyền sở 263 BLDS 1995 quy định “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp phápcó quyền yêu cầu Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người cóhành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứthành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiên quyền sở hữu, quyền chiếm hữu vàyêu cầu bồi thường thiệt sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở
Bộ luật Dân sự hiện hành đã dành hẳn một chương quy định về quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và kèm theo những quy định để bảo vệ những quyền ấy. Một trong các phương thức để bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là quyền kiện đòi tài sản. Trên thực tế, việc kiện đòi tài sản cũng diễn ra khá nhiều bởi hiện nay có nhiều quan hệ dân sự phát sinh làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự trong việc bảo vệ tài sản của mình. Chính vì thế, Luật Vạn Phúc xin gửi đến quý khách hàng bài viết về Kiện đòi tài sản theo quy định của BLDS một cách khái quát nhất để quý khách có thể nắm rõ quy trình kiện đòi tài sản này. Cơ sở pháp lý Điều 166 Bộ luật dân sự BLDS 2015. Kiện đòi tài sản là gì? Theo quy định của pháp luật, không ai có thể bị hạn chế hay tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản. Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản một cách hợp pháp của chủ thể có liên quan. Và một trong những quyền ấy đó chính là quyền được kiện đòi lại tài sản. Như vậy, kiện đòi lại tài sản là một phương thức để bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp. Là việc chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Quy định đòi lại tài sản Điều kiện để đòi lại tài sản Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà việc đòi lại tài sản cần phải có những điều kiện khác nhau. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết bắt buộc có ở mọi trường hợp là đối tượng khởi kiện đòi lại tài sản phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Các trường hợp khác đó là Đối với trường hợp “Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình” thì điều kiện để đòi lại tài sản như sau + Tài sản có được này phải thông qua hợp đồng không có đền bù hoặc hợp đồng có đền bù trong trường hợp động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu + Chủ thể là người đang thực tế chiếm hữu/sử dụng tài sản đó không có căn cứ do pháp luật quy định. + Chủ sở hữu phải chứng minh được tài sản chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đó là tài sản của chính mình. Đối với trường hợp “Bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng chiếm hữu ngay tình tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, thông qua hợp đồng có đề bù và theo ý chí của người chiếm hữu có căn cứ pháp luật như cho mượn, cho thuê…” chủ sở hữu trong trường hợp này sẽ không được kiện đòi lại tài sản của người đang thực tế chiếm hữu tài sản đó mà sẽ kiện người mình đã chuyển giao tài sản kia. Đối với trường hợp “Bị đơn là người chiếm hữu không có căn pháp luật nhưng ngay tình đối với bất động sản và tài sản phải đăng ký quyền sở hữu” chủ sở hữu có quyền yêu cầu đòi lại tài sản. Hồ sơ để đòi lại tài sản Để khởi kiện đòi lại tài sản, quý khách hàng cần chuẩn bị những hồ sơ, giấy tờ sau + Các giấy tờ chứng minh nhân thân của mình, của người có liên quan như giấy chứng minh nhân dân, hộ khẩu…. + Các tài liệu chứng cứ chứng minh việc khởi kiện đòi lại tài sản là có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật. + Các tài liều, chứng cứ chứng minh lỗi hay dấu hiệu vi phạm của những chủ thể có liên quan. + Biên lai đã nộp lệ phí/ tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. + Các tài liệu khác có liên quan. Đối tượng của kiện đòi lại tài sản Theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Vậy, đối tượng của kiện đòi lại tài sản chính là tài sản. Theo quy định tại Điều 105 BLDS, tài sản sẽ gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tuy nhiên, do đặc thù của quyền kiện đòi lại tài sản, nên không phải những loại tài sản nào được liệt kê tại Điều 105 trên cũng là đối tượng của kiện đòi tài sản. Mà đó phải là những vật có thực và đang tồn tại trên thực tế. Quyền tài sản là loại tài sản vô hình nên không thể xem là đối tượng của quyền kiện đòi tài sản được. Như vậy, đối tượng của kiện đòi lại tài sản sẽ là vật, tiền, giấy tờ có giá. Phương thức kiện đòi lại tài sản Kiện đòi tài sản được pháp luật quy định khá rõ ràng và đầy đủ về phương thức bao gồm chủ thể có quyền, đối tượng khởi kiện, quan hệ hợp đồng giữa nguyên đơn và bị đơn…. Phương thức kiện đòi lại tài sản này cũng như các phương thức kiện đòi dân sư khác, nó đều tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp để họ có thể chủ động bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chính mình một cách nhanh chóng và thuận tiện Các trường hợp áp dụng kiện đòi lại tài sản Những trường hợp được áp dụng kiện đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật là + Trường hợp đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình + Bị đơn là người chiếm hữu không có căn pháp luật nhưng ngay tình đối với bất động sản và tài sản phải đăng ký quyền sở hữu Các trường hợp không được kiện đòi lại tài sản Tuy pháp luật quy định chủ thể có liên quan có thể khởi kiện đòi lại tài sản nhưng không phải lúc nào họ cũng có quyền này, trong một số trường hợp nhất định thì họ sẽ không được kiện đòi lại tài sản. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó. Đơn cử như trường hợp Bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng chiếm hữu ngay tình tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, thông qua hợp đồng có đề bù và theo ý chí của người chiếm hữu có căn cứ pháp luật như cho mượn, cho thuê… Quy trình kiện đòi tài sản Chuẩn bị hồ sơ hợp lệ Khi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc kiện đòi tài sản theo quy định của pháp luật thì chủ thể khởi kiện cần phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ như ở phần trên đã liệt kê. Và quý khách hàng cần chuẩn bị đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật để tránh mất thời gian, công sức đi lại cũng như là cơ quan có thẩm quyền sẽ xử lý nhanh hơn. Nộp hồ sơ tại cơ quan có thẩm quyền Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện và những hồ sơ có liên quan đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật. Có thể nộp bằng các hình thức sau + Trực tiếp tại Tòa án; + Gửi qua dịch vụ bưu chính; + Hoặc gửi bằng hình thức trực tuyến qua cổng thông tin điện tử của Tòa án nếu có Kiểm tra, giải quyết và trả kết quả + Sau khi nhận được hồ sơ hợp lệ, Tòa án sẽ xem xét, kiểm tra nội dung đơn khởi kiện và nếu xét thấy đúng thẩm quyền của mình thì Tòa án sẽ thông báo cho đương sự biết để đương sự nộp tiền tạm ứng án phí. + Trong thời hạn 15 ngày khi nhận được thông báo, đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí rồi nộp lại biên lai cho Tòa án, Tòa án sẽ thụ lý giải quyết. + Sau đó, Tòa án sẽ tiến hành thủ tục chuẩn bị xét xử để đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, nếu có đơn kháng cáo, kháng nghị thì sẽ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Và còn có thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng. Thời hiệu kiện đòi lại tài sản Theo quy định của pháp luật dân sự hiện nay không có quy định cụ thể nào về thời hiệu khởi kiện đòi lại tài sản. Tuy nhiên, trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có đề cập đến thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, trong đó tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Vậy, có thể hiểu thời kiện khởi kiện đòi lại tài sản là vĩnh viễn, trừ trường hợp việc chiếm hữu tài sản đó đã được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản theo thời hiệu. Pháp luật quy định như vậy là để bảo vệ quyền lợi của công dân một cách tối ưu nhất. Lệ phí kiện đòi tài sản Khi nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp kiện đòi lại tài sản thì đương sự phải nộp án phí, lệ phí. Mức án phí, lệ phí được xác định theo quy định của pháp luật tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể mà mức án phí sẽ khác nhau được xác định theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Một số câu hỏi thường gặp về kiện đòi tài sản Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ? Trả lời Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với những quy định sau đây sẽ được xem là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật + Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; + Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; + Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; + Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; + Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; + Trường hợp khác do pháp luật quy định. Vật nào được xem là đối tượng của kiện đòi tài sản ? Trả lời không phải vật nào cũng được xem là đối tượng của kiện đòi tài sản, mà đó phải là những vật có thực và đang tồn tại trên thực tế. Nếu vật đó hiện không còn tồn tại hay bị mất thì có được khởi kiện đòi lại tài sản không ? Trả lời Nếu vật hiện không còn tồn tại do đã bị mất mà không xác định được ai là người đang thực tế chiếm hữu hoặc bị tiêu hủy thì cũng không thể áp dụng biện pháp kiện đòi lại tài sản được. Trường hợp này thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp chỉ có thể áp dụng biện pháp kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Hồ sơ khởi kiện đòi lại tài sản bằng tiếng nước ngoài thì phải làm sao ? Trả lời đối với các tài liệu, hồ sơ khởi kiện đòi lại tài sản nếu được viết bằng tiếng nước ngoài thì trước khi nộp đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần được dịch sang tiếng Việt. Các bản tài liệu khác nếu được nộp bằng bản sao thì cần được xác nhận sao y bản chính theo đúng quy định. Luật Vạn Phúc là nơi uy tín và có kinh nghiệm dày dặn trong việc tư vấn giải quyết tranh chấp kiện đòi tài sản theo quy định của BLDS. Với đội ngũ luật sư và những chuyên viên pháp lý vô cùng tâm huyết, chúng tôi cam kết thời hạn và chi phí khi sử dụng dịch vụ tư vấn của công ty chúng tôi sẽ đảm bảo thực hiện công việc theo đúng tiến độ thỏa thuận, tuân thủ đúng quy định pháp luật với chi phí vô cùng hợp lý, cạnh tranh trên thị trường. Chúng tôi sẽ tư vấn cho quý khách hàng để quý khách hiểu rõ bản chất của vấn đề, hiểu rõ thủ tục, quy trình theo quy định của pháp luật để bảo vệ tối ưu nhất quyền lới của quý khách. Trên đây là bài viết kiện đòi tài sản theo quy định của BLDS của Luật Vạn Phúc. Nếu quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn hay Dịch vụ luật sư giải quyết đòi lại tài sản vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi. Đọc thêm Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chuẩn pháp lý hiện nay Đọc thêm Dịch vụ giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp uy tín nhất
kiện đòi tài sản